Tìm kiếm tin tức
danh mục
Thông tin cần biết
Liên kết
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Điểm tin Dân số ngày 20/5/2022
Ngày cập nhật 20/05/2022

suckhoedoisong.vn: 3 nguyên nhân được nghi ngờ khiến trẻ em gái ngày càng dậy thì sớm

20-05-2022 7:30 AM | Giới tính

SKĐS - Ngày càng nhiều bé gái bắt đầu phát triển ngực sớm, một số trẻ phát triển ngay từ 6 hoặc 7 tuổi. Các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu vai trò của béo phì, hóa chất và căng thẳng. Thông tin mới đăng tải trên The New York Times.

1. Nghiên cứu bước ngoặt về tuổi dậy thì sớm ở bé gái

Cuối những năm 1980, TS. Herman-Giddens, Trường Y tế Công cộng Toàn cầu Gillings của Đại học North Carolina (khi đó đang làm giám đốc cho đội lạm dụng trẻ em tại Trung tâm Y tế Đại học Duke ở Durham) đã nhận ra có điều gì đó bất thường đang thay đổi ở nhiều cô gái trẻ, nhiều người trong số họ đã bắt đầu phát triển ngực ở độ tuổi rất sớm từ khi lên 6 hoặc 7.

Một thập kỷ sau, Herman-Giddens đã công bố một nghiên cứu về hơn 17.000 bé gái đã khám sức khỏe tại các văn phòng bác sĩ nhi khoa trên khắp Hoa Kỳ. Các con số tiết lộ rằng, trung bình, các cô gái vào giữa những năm 1990 đã bắt đầu phát triển ngực sớm - thường là dấu hiệu đầu tiên của tuổi dậy thì - vào khoảng 10 tuổi, sớm hơn một năm so với ghi nhận trước đây.

TS. Herman-Giddens nhớ lại rằng cộng đồng y tế đã bị sốc và nhiều người nghi ngờ những phát hiện này. Nhưng nghiên cứu của TS. Herman-Giddens hóa ra là một bước ngoặt trong sự hiểu biết y học về tuổi dậy thì. Các nghiên cứu trong nhiều thập kỷ kể từ đó đã cho thấy, ở hàng chục quốc gia, tuổi dậy thì ở trẻ em gái đã giảm khoảng 3 tháng mỗi thập kỷ kể từ những năm 1970.

Dậy thì sớm hơn có thể có những tác động có hại, đặc biệt là đối với các bé gái. Trẻ em gái dậy thì sớm có nguy cơ bị trầm cảm, lo lắng, lạm dụng chất kích thích và các vấn đề tâm lý khác cao hơn so với các bạn đồng trang lứa dậy thì muộn hơn. Những cô gái có kinh sớm hơn cũng có thể có nguy cơ cao bị ung thư vú hoặc ung thư tử cung khi trưởng thành.

Theo Thang đo Tanner, dựa trên những quan sát chặt chẽ từ năm 1949 đến năm 1971 của khoảng 700 trẻ em gái và trẻ em trai sống trong trại trẻ mồ côi ở Anh. Thang đo xác định tuổi dậy thì bình thường là bắt đầu từ 8 tuổi trở lên đối với trẻ em gái và 9 tuổi trở lên đối với trẻ em trai. Nếu tuổi dậy thì bắt đầu sớm hơn những ngưỡng đó, các bác sĩ phải sàng lọc đứa trẻ mắc chứng rối loạn nội tiết tố hiếm gặp được gọi là dậy thì sớm trung tâm, có thể thúc đẩy dậy thì sớm ngay từ khi còn nhỏ.

 

2. Gia tăng các trường hợp dậy thì sớm trong thời kỳ đại dịch

Không ai biết yếu tố rủi ro nào hoặc sự kết hợp của các yếu tố nào đang dẫn đến sự suy giảm tuổi tác hoặc tại sao lại có sự khác biệt rõ rệt về chủng tộc và giới tính. Béo phì dường như đang đóng một vai trò nào đó, nhưng nó không thể giải thích đầy đủ sự thay đổi. Các nhà nghiên cứu cũng đang điều tra những ảnh hưởng tiềm ẩn khác, bao gồm các hóa chất có trong một số loại nhựa và do căng thẳng, do lối sống. Và vì những lý do không rõ ràng, các bác sĩ trên khắp thế giới đã báo cáo sự gia tăng các trường hợp dậy thì sớm trong thời kỳ đại dịch.

TS. Anders Juul, bác sĩ nội tiết nhi tại Đại học Copenhagen ( Đan Mạch)

TS. Anders Juul đã công bố hai nghiên cứu gần đây về hiện tượng này cho biết: "Chúng tôi đang thấy những thay đổi rõ rệt này ở trẻ con và không rõ cách để ngăn chặn điều đó xảy ra. Chúng tôi không biết nguyên nhân cho hiện tượng này."

Trong thời kỳ đại dịch, nhiều bác sĩ nội tiết nhi khoa trên toàn thế giới nhận thấy rằng các trẻ em gái được giới thiệu đến dậy thì sớm hơn đang tăng lên. Một nghiên cứu được công bố ở Ý vào tháng 2 vừa qua cho thấy 328 trẻ em gái được giới thiệu đến 5 phòng khám trên khắp đất nước trong thời gian 7 tháng vào năm 2020, so với 140 trẻ em trong cùng kỳ năm 2019 (Không có sự khác biệt nào được tìm thấy ở trẻ em trai). Theo suy luận, điều tương tự có thể xảy ra ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ.

Tiến sĩ Paul Kaplowitz, giáo sư danh dự về nhi khoa tại Bệnh viện Nhi đồng Quốc gia ở Washington cho biết: "Tôi đã hỏi các đồng nghiệp của mình trên khắp đất nước và một số người cho biết họ thấy một xu hướng tương tự. Không rõ xu hướng này là do căng thẳng gia tăng, lối sống ít vận động hơn hay do cha mẹ có nhiều thời gian ở gần con cái để nhận ra những thay đổi sớm."

3. Béo phì có liên quan đến dậy thì sớm không?

Vào khoảng thời gian TS. Herman-Giddens công bố nghiên cứu mang tính bước ngoặt của mình, nhóm nghiên cứu của TS. Juul, bác sĩ nội tiết nhi tại Đại học Copenhagen ( Đan Mạch) đã kiểm tra sự phát triển của vú với nhóm 1.100 bé gái ở Copenhagen. Không giống như trẻ em Mỹ, nhóm người Đan Mạch phù hợp với mô hình được mô tả từ lâu trong sách giáo khoa y khoa: Các bé gái bắt đầu phát triển ngực ở độ tuổi trung bình là 11 tuổi.

Vào thời điểm đó, TS. Juul cho rằng việc bắt đầu dậy thì sớm hơn ở Hoa Kỳ có lẽ liên quan đến sự gia tăng béo phì ở trẻ em và sự "bùng nổ" tuổi dậy thì ở Hoa Kỳ không xảy ra ở Đan Mạch.

Béo phì có liên quan đến thời kỳ kinh nguyệt sớm hơn ở trẻ em gái kể từ những năm 1970. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những cô gái thừa cân hoặc béo phì có xu hướng bắt đầu có kinh sớm hơn những cô gái có trọng lượng trung bình.

Trong một nghiên cứu kéo dài hàng thập kỷ trên gần 1.200 bé gái ở Louisiana được công bố vào năm 2003, béo phì ở trẻ em có liên quan đến các giai đoạn trước đó: Mỗi độ lệch chuẩn trên trọng lượng trung bình thời thơ ấu có liên quan đến tăng gấp đôi việc có kinh nguyệt trước 12 tuổi.

Và vào năm 2021, các nhà nghiên cứu từ Anh đã phát hiện ra rằng leptin, một loại hormone được tiết ra bởi các tế bào mỡ có tác dụng hạn chế cảm giác đói, hoạt động trên một phần của não cũng điều chỉnh sự phát triển giới tính. Chuột và những người có đột biến gen nhất định ở vùng này đã trải qua quá trình phát dục muộn hơn.

Tuy nhiên, theo TS. Natalie Shaw, một nhà nội tiết nhi tại Viện Khoa học Sức khỏe Môi trường Quốc gia, người đã nghiên cứu tác động của béo phì đối với tuổi dậy thì cho biết: "Tôi không nghĩ có nhiều tranh cãi rằng béo phì là nguyên nhân chính dẫn đến dậy thì sớm. Thực tế, nhiều bé gái phát triển sớm không bị thừa cân. Béo phì không thể giải thích tất cả những điều này."

4. Hóa chất có thể gây rối loạn nội tiết

Trong thập kỷ sau nghiên cứu của TS. Herman-Giddens, TS. Juul bắt đầu nhận thấy sự gia tăng số lượng liên quan đến dậy thì sớm ở Copenhagen, chủ yếu là các bé gái phát triển ngực khi 7 hoặc 8 tuổi. Trong một nghiên cứu năm 2009 trên gần 1.000 trẻ em gái ở độ tuổi đi học ở Copenhagen, nhóm của ông phát hiện ra rằng độ tuổi phát triển ngực trung bình đã giảm một năm so với nghiên cứu trước đó của ông, xuống còn dưới 10 tuổi, với hầu hết các bé gái từ 7 đến 12 tuổi. Các bé gái cũng có kinh sớm hơn, khoảng 13 tuổi, sớm hơn khoảng 4 tháng so với những gì TS. Juul đã báo cáo trước đó.

"Đó là một sự thay đổi rất rõ rệt trong một khoảng thời gian rất ngắn," TS. Juul nói. Tuy nhiên, TS. Juul không cho rằng béo phì là nguyên nhân vì chỉ số khối cơ thể của trẻ em Đan Mạch trong nhóm 2009 không khác so với những năm 1990.

TS. Juul đã trở thành một trong những người ủng hộ mạnh mẽ một lý thuyết thay thế cho rằng phơi nhiễm hóa chất là nguyên nhân. Ông cho biết, những cô gái có bộ ngực phát triển sớm nhất trong nghiên cứu năm 2009 của ông, có nồng độ phthalate trong nước tiểu cao nhất. Đây là chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn được tìm thấy trong mọi thứ, từ sàn nhựa vinyl đến bao bì thực phẩm.

Phthalate thuộc về một loại hóa chất rộng hơn được gọi là "chất gây rối loạn nội tiết", có thể ảnh hưởng đến hoạt động của hormone và đã trở nên phổ biến trong môi trường trong vài thập kỷ qua.

Trong một bài báo được xuất bản gần đây, TS. Juul và một nhóm các nhà nghiên cứu đã phân tích hàng trăm nghiên cứu về các chất gây rối loạn nội tiết và ảnh hưởng của chúng đối với tuổi dậy thì. Phương pháp của các nghiên cứu rất đa dạng; một số được thực hiện ở trẻ em trai, số khác ở trẻ em gái, và họ thử nghiệm nhiều hóa chất khác nhau ở các độ tuổi tiếp xúc khác nhau. Phân tích bao gồm 23 nghiên cứu đủ giống nhau để so sánh, nhưng nó vẫn không thể chỉ ra mối liên quan rõ ràng giữa bất kỳ chất hóa học nào và độ tuổi dậy thì.

Tiến sĩ Hauser, người gần đây đã báo cáo về việc các chất gây rối loạn nội tiết ảnh hưởng đến tuổi dậy thì ở các bé trai cho biết . "Chúng tôi không có đủ dữ liệu để xây dựng một trường hợp mạnh mẽ cho một loại hóa chất cụ thể."

5. Căng thẳng và lối sống có thể tác động thế nào?

Các yếu tố khác cũng có thể liên quan đến dậy thì sớm hơn, ít nhất là ở trẻ em gái như những cô gái có mẹ có tiền sử rối loạn tâm trạng cũng như những cô gái không sống với cha ruột của mình dường như cũng dậy thì sớm hơn. Các yếu tố về lối sống như thiếu hoạt động thể chất cũng có liên quan đến những thay đổi trong thời gian dậy thì.

Lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu có liên quan đến việc trẻ dậy thì sớm hơn. Tuy nhiên, các yếu tố này rất khó xác định. Căng thẳng và chấn thương có thể thúc đẩy sự phát triển sớm hơn, hoặc, như TS. Herman-Giddens đưa ra giả thuyết cách đây hàng thập kỷ, những trẻ em gái phát triển thể chất sớm hơn có thể dễ bị lạm dụng hơn.

Hoàng Nam

Theo The New York Times

https://suckhoedoisong.vn/3-nguyen-nhan-duoc-nghi-ngo-khien-tre-em-gai-ngay-cang-day-thi-som-169220519232200225.htm

 

vnexpress.net: Quan hệ tình dục sớm

Một người mẹ lo lắng đưa con gái đến gặp tôi vì cô bé có người yêu, hai đứa rất quấn quýt, không còn chú ý tới học hành, và có những biểu hiện lạ.

Chị kể trong nhiều năm dạy học phổ thông, chị từng chứng kiến những nữ sinh quan hệ tình dục sớm rồi lỡ có thai, phải dừng học ở nhà nuôi con, mất đi cơ hội phát triển bản thân. Những em khác chọn cách nạo phá thai, gây tổn thương tâm lý và thể chất. Cá biệt, có nữ sinh mang thai nhưng không được bạn trai thừa nhận, đã chọn cách kết thúc cuộc sống.

Vì thế, chị mang nỗi ám ảnh dai dẳng khi con gái bắt đầu lớn, đặc biệt là từ khi cháu có bạn trai. Người mẹ chỉ muốn tôi trò chuyện, giúp con hiểu sự khác nhau giữa tình bạn, tình yêu, tình dục và các khả năng con phải đối diện nếu xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Cháu thường lảng tránh mỗi khi chị bắt đầu câu chuyện với giọng điệu khuyên nhủ.

Nỗi lo của chị không xa xôi. Một nghiên cứu được Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố ngày 25/4 cho thấy tỷ lệ quan hệ tình dục trước 14 tuổi ở học sinh Việt Nam tăng gấp hai lần, từ 1,45% (năm 2013) lên 3,51% (năm 2019). Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai giảm đi.

Bản năng duy trì nòi giống đã được lập trình sẵn trong con người. Khi trẻ bước vào tuổi dậy thì, tuyến yên phát tín hiệu tới các tuyến sinh dục, khởi động khả năng sinh sản, phóng thích các hormone testosterone và oestrogen, dần hoàn thiện chức năng sinh sản, thôi thúc mỗi người tìm kiếm người kết đôi để duy trì nòi giống.

Nhưng quan hệ tình dục trước 14 tuổi là quá sớm, sẽ để lại những hệ lụy khôn lường. Trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ để hoàn thiện cơ thể và chức năng sinh sản. Khi quan hệ tình dục sớm, nhất là với những trẻ có thai ở tuổi dậy thì, khả năng phát triển tối đa chiều cao và hoàn thiện chức năng sinh lý bị ảnh hưởng, gây lão hóa sớm hơn.

Cơ thể chưa hoàn thiện và ổn định, trẻ có thể gặp những hậu quả nghiêm trọng về thể chất khi mang thai, thậm chí gây tử vong. Con sinh ra từ mẹ tuổi vị thành niên cũng có nhiều tiên lượng xấu hơn như đẻ non, nhẹ cân, dị tật bẩm sinh, dễ tử vong sớm sau sinh. Việc nạo phá thai, dùng thuốc tránh thai khẩn cấp có thể dẫn đến vô sinh, gây tổn thương thể chất, tâm thần lâu dài đến người mẹ.

Đa số cha mẹ đều biết điều đó không tốt cho trẻ nhưng gặp khó khăn trong việc giúp con hiểu. Một số phụ huynh chia sẻ với tôi, họ gần như bất lực nên đã chủ động mua bao cao su cho con để tránh việc mang thai ngoài ý muốn. Nhưng việc này là "con dao hai lưỡi". Đứa trẻ có thể hiểu nhầm thông điệp, rằng đó là hành vi "bật đèn xanh" của bố mẹ cho việc quan hệ sớm của mình.

Một nam sinh nghiện sex suốt nhiều năm - đến mức suy giảm chức năng cơ thể và thần kinh, rối loạn tâm lý, ảo giác, ảo thanh, phải bỏ dở việc học - từng được mẹ đưa đến gặp tôi trị liệu. Tôi từng bước giúp em thay đổi thói quen, rèn luyện để lấy lại chức năng hoạt động hiệu quả cho hệ thần kinh và cơ thể - một quá trình mất rất nhiều thời gian và nỗ lực của cả hai phía.

Quan hệ tình dục là hoạt động có khả năng gây nghiện. Quan hệ tình dục sớm càng dễ nghiện. Khi đó, trẻ có thể dễ dãi chấp nhận quan hệ với người khác hơn, dễ lạm dụng tình dục và dễ bị lạm dụng.

Những trẻ yêu và quan hệ tình dục sớm dễ có nguy cơ tổn thương tâm lý. Chưa có đủ nhận thức và kỹ năng quản trị mối quan hệ, nên dễ có những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi tiêu cực đối với bản thân và người khác khi chuyện tình cảm không như ý. Các em cũng dễ lơ là học tập trong giai đoạn chuẩn bị nền tảng kiến thức đảm bảo khả năng làm việc và phát triển cuộc sống sau này.

Một chương trình giáo dục giới tính, tình dục toàn diện, phù hợp lứa tuổi, từ mầm non đến cấp 3, được khuyến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai kịp thời. Nhưng thay vì phó mặc cho nhà trường, gần trẻ hơn cả, sự chia sẻ trong gia đình là điều cần thiết và hữu ích hơn hết. Ngay cả khi không có kiến thức tâm sinh lý, tình dục như một chuyên gia, cha mẹ vẫn hoàn toàn biết cách giải tỏa, chuyển hóa những năng lượng sinh lý bằng các hoạt động lành mạnh.

Một trong những rào cản của giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên là nỗi e ngại "vẽ đường cho hươu chạy", nhưng với những vấn đề mang tính bản năng, không được vẽ, trẻ cũng sẽ "tự chạy".

Thà rằng chúng được vẽ đến nơi đến chốn, để biết lúc nào mới nên chạy và chạy sao cho đúng đường.

Trần Kim Thành

https://vnexpress.net/quan-he-tinh-duc-som-4464670.html

 

 

baodantoc.vn: Thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS: Nhìn lại để triển khai hiệu quả hơn

Thanh Phong - 10:00, 06/05/2022

Thời gian qua, Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống (HNCHT) trong vùng DTTS đã triển khai rộng khắp trên cả nước và đạt được nhiều kết quả khả quan, góp phần nâng cao nhận thức của đồng bào DTTS về những hệ lụy của tảo hôn và HNCHT. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần khắc phục để thực hiện tốt hơn trong giai đoạn mới.

Nhiều thành quả quan trọng

Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg, ngày 14/4/2015 phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015 - 2025”, Ủy ban Dân tộc đã xây dựng Kế hoạch triển khai và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Đề án.

Bà Nguyễn Thị Hồng Huệ, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc) cho biết: Qua 5 năm (2015-2020) triển khai thực hiện Đề án, bước đầu thu được một số kết quả khá khả quan: Các cấp ủy, chính quyền các địa phương, trường học (trong đó có cả các trường phổ thông dân tộc nội trú) đã quan tâm chỉ đạo chặt chẽ đối với việc triển khai thực hiện Đề án. Nhất là vai trò của già làng, trưởng thôn, Người có uy tín, đội ngũ hòa giải viên, đã kịp thời tuyên truyền, giáo dục thuyết phục những trường hợp có nguy cơ  tảo hôn và HNCHT tại địa phương.

Nhờ đó, tình trạng HNCHT, đến nay đã giảm 4,7% so với năm 2014 (năm 2014 là 26,6%, năm 2018 là 21,9%; bình quân mỗi năm giảm 0,94%/năm). Tỷ lệ HNCHT của 53 DTTS là 0,56%, so với tỷ lệ người DTTS kết hôn cận huyết thống năm 2014 là 0,65% đã giảm 0,1% (bình quân mỗi năm giảm 0,02%/năm).

Theo số liệu Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2019, Tây Nguyên tuy vẫn tiếp tục có tỷ lệ tảo hôn cao nhất, năm 2018 là 27,5% nhưng cũng đã giảm 2,1% so với năm 2014; tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc là 24,6% (giảm 5,1 % so với năm 2014) và Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung là 22,4% (giảm 3,2 % so với năm 2014). Đồng bằng sông Hồng, nơi không có nhiều người DTTS sinh sống (3,3%), là vùng có tỷ lệ người DTTS tảo hôn thấp nhất cả nước năm 2018 (7,8%)...

Những kết quả trên, là tín hiệu đáng mừng, cho thấy nhận thức của đồng bào DTTS về tác hại của nạn tảo hôn và HNCHT được nâng lên rõ rệt.

Nhìn từ thực tế những năm qua, nhiều địa phương đã thành lập và triển khai thực hiện mô hình điểm,ở nơi có tỷ lệ tảo hôn và HNCHT cao, đã góp phần thực hiện có hiệu quả việc tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chính sách pháp luật về hôn nhân và gia đình, từ đó có sự thay đổi trong hành vi góp phần giảm thiểu tình trạng tảo hôn, HNCHT ở địa phương.

Các tỉnh đã xây dựng, duy trì và nhân rộng các mô hình và các câu lạc bộ lên tới 2.892 mô hình điểm tại 3.481 xã, thôn, bản, buôn. Tổ chức 211.805 cuộc tư vấn, tuyên truyền về tảo hôn và HNCHT cho 494.838 lượt đồng bào tại các xã thực hiện mô hình điểm. Tổ chức ký cam kết không kết hôn tảo hôn và HNCHT cho người dân sinh sống trên địa bàn các xã thực hiện mô hình điểm.

 Các câu lạc bộ mô hình này hoạt động tương đối hiệu quả, nhiều cặp tảo hôn được can thiệp kịp thời, được tuyên truyền phổ biến pháp luật về hôn nhân gia đình và tác hại của việc tảo hôn, làm cho giới trẻ nhận thức đúng đắn hơn và có trách nhiệm trong hôn nhân gia đình.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, trong quá trình triển khai thực hiện Đề án vẫn còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế bất cập như: Tỷ lệ tảo hôn, HNCHT đã giảm nhưng tuổi kết hôn trung bình của người DTTS tảo hôn còn thấp (năm 2018 là 17,5 tuổi đối với nam và 15,8 tuổi đối với nữ). 

Một số địa phương chưa thật sự quan tâm chỉ đạo công tác này. Bố trí kinh phí thực hiện Đề án ở địa phương còn khó khăn. Chưa có cán bộ chuyên trách… Bên cạnh đó, vấn đề về nhận thức hạn chế, hủ tục… cũng đang là rào cản lớn cho công tác này.

Tiếp tục phát huy trong giai đoạn mới

Kết quả thực hiện Đề án giai đoạn I cho thấy, để Đề án đạt được chỉ tiêu đã đề ra, cần có sự phối hợp thực hiện, theo dõi, kiểm tra và giám sát của các cấp, các ngành; sự đầu tư kinh phí từ Trung ương đến địa phương.

Vì vậy, trong giai đoạn tới, nhằm đạt được kết quả cao hơn nữa trong thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và HNCHT trong vùng DTTS giai đoạn 2015-2025”, Ủy ban Dân tộc đã tham mưu Chính phủ quyết định tích hợp nội dung của Đề án thành một tiểu dự án trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030

Bên cạnh đó, Ủy ban Dân tộc cũng đã thành lập các đoàn công tác kiểm tra, lắng nghe ý kiến từ cơ sở, để có những tham mưu đề xuất Chính phủ điều chỉnh, bổ sung chính sách dân tộc, trong đó có việc thực hiện Đề án giảm thiểu tảo hôn và HNCHT nhằm triển khai hiệu quả hơn trong giai đoạn tới.

Để đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 cơ bản ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tảo hôn và HNCHT trong vùng DTTS, góp phần nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực vùng DTTS, trong giai đoạn tới, Đề án sẽ tập trung vào các nhiệm vụ: Tổ chức truyền thông, tuyên truyền bằng nhiều hình thức như biên soạn, cung cấp tài liệu, tập huấn về kiến thức, kỹ năng truyền thông, vận động, tư vấn pháp luật liên quan về hôn nhân và gia đình. Tổ chức các hội nghị lồng ghép, hội thảo, tọa đàm, giao lưu văn hóa, nhằm tuyên truyền hạn chế tình trạng tảo hôn và HNCHT trong vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Tổ chức các hội thi tìm hiểu về pháp luật, về hôn nhân, về kết hôn tảo hôn và HNCHT; tăng cường các hoạt động tư vấn, can thiệp lồng ghép với các chương trình, dự án, mô hình chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, dân số kế hoạch hóa gia đình, dinh dưỡng, phát triển thể chất có liên quan trong lĩnh vực hôn nhân nhằm giảm thiểu tình trạng tảo hôn và HNCHT vùng DTTS.

Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân, phòng ngừa tảo hôn và HNCHT như Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Trẻ em; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Luật Bình đẳng giới, Dân số và Gia đình...

Duy trì và triển khai mô hình tại các xã/huyện/trường có tỷ lệ tảo hôn và HNCHT. Nhân rộng mô hình điểm và các mô hình chuyên đề phù hợp nhằm thay đổi hành vi, khả năng tiếp cận thông tin và huy động sự tham gia của cộng đồng thực hiện ngăn ngừa, giảm thiểu tảo hôn và HNCHT trong vùng đồng bào DTTS và miền núi….

Làm tốt công tác kiểm tra kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình; thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả tổ chức, triển khai thực hiện các hoạt động của Đề án tại địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; sự phối hợp của các Bộ, ban, ngành liên quan trong triển khai thực hiện.

Với sự vào cuộc quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, hy vọng rằng tảo hôn và HNCHT sẽ được kiểm soát và đẩy lùi, góp phần thực hiện có hiệu công tác dân tộc của Đảng và chính sách dân tộc của Nhà nước hiện nay; nhất là tham gia thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.

https://baodantoc.vn/thuc-hien-de-an-giam-thieu-tinh-trang-tao-hon-va-hon-nhan-can-huyet-thong-trong-vung-dtts-nhin-lai-de-trien-khai-hieu-qua-hon-1651738326618.htm

 

 

 

 

 

 

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thông điệp